Thánh Luca (Luke), tác giả Tin Mừng thứ ba và sách Tông Đồ Công Vụ (Acts).
Sinh tại Antioch, Syria, Đế Quốc Roma, ngày nay là Antakya, Hatay, Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) vào giữa năm 1AD và 16 AD.
Qua đời tại Thebes, Boeotia, Achaea, Đế Quốc Roma, nay là Thebes, Hy Lạp (Greece), giữa năm 84 AD và 100 AD. Hưởng thọ 84 tuổi.
Bổn mạng giới y sỹ, bác sỹ và họa sỹ.
Lễ kính ngày 18 tháng 10.
Sơ lược tiểu sử:
Thánh Luca sinh ra trong một gia đình giầu có, nề nếp tại Antiokia. Tuổi trẻ ngài được giáo dục và học hỏi đầy đủ về khoa học cũng như văn minh Hy Lạp. Ngài sinh sống bằng nghề lương y. Ngài cũng được cho là người đã vẽ bức tranh Đức Maria và Chúa Giêsu mà sau này gọi là Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
Khởi đầu bước đường tông đồ của ngài là khi nghe Thánh Phaolô giảng về Chúa tại thành Troas. Cảm nhận được ý nghĩa và sự thâm thúy của một chân lý mới, ngài đã chịu phép rửa tội và xin theo Thánh Phaolô. Sau khi gặp Thánh Phaolô vào năm 51, Thánh Luca đã đồng hành với thánh nhân từ Macedonia tới Philippi, nhưng sau đó hai người đã chia tay. Theo như ngài viết trong Tông Đồ Công Vụ thì sau khi Thánh Phaolô và Silas, một cách nhiệm mầu, thoát khỏi nhà tù ở Philippi, hai ngài đã rời khỏi đó (Acts 16:40). Có lẽ Thánh Phaolô đã để Thánh Luca lại đó giúp đỡ và hướng dẫn những người mới trở lại. Ngài được cho là mục tử đầu tiên của Philippi. Sau một thời gian dài, hai người gặp nhau tại Philippi, từ đó, Thánh Luca đã toàn tâm, toàn lực theo cộng tác với Thánh Phaolô.
Sau khi thánh Phaolô tử đạo năm c. 62 - 64 ce, tại Rome [Italy], có tài lài liệu cho rằng Thánh Luca đã giảng đạo tại Achaie và Beotie. Ngài là giám mục Thèbes. Thánh Giêrônimô trong tác phẩm Chú Giải Tin Mừng Thánh Mátthêu nói rõ, Thánh Luca viết Phúc Âm thứ ba tại Achaie và Beotie. Thánh Gaudence de Bresciaa cũng quả quyết rằng Thánh Luca tử đạo cùng với Thánh Andrê tại Patras một thành phố nhỏ thuộc vùng Achaie. Xác ngài được đưa về Constantinople khoảng 338 CE, sau đó đã rời về Padua, Ý, và an nghỉ trong Vương Cung Thánh Đường Santa Giustina. Một cái xương sườn của ngài được cho là vẫn còn được cất giữ tại nơi an táng ở Thebes.
Một số tài liệu sau này cho rằng Thánh Luca là một trong 70 môn đệ được Chúa sai đi, và ngài là người đồng hành cùng với Cleopas.
Thánh Luca được nhắc đến trong Thư Thánh Phaolô gửi Philemon (v.24), và trong hai thư khác gửi Colossians 4:14 và 2 Timothy 4:11. Hầu hết các nguồn cổ xưa do Irenaeus, Tertullian, Clement của Alexandria, Origen, và the Muratorian Canon đều công nhận Thánh Luca là tác giả của Phúc Âm thứ ba và Sách Tông Đồ Công Vụ.
Viết Phúc Âm và Tông Đồ Công Vụ:
Phúc Âm thứ ba và sách Tông Đồ Công Vụ được các học giả Thánh Kinh công nhận là của Thánh Luca. Theo truyền thống Giáo Hội, và căn cứ theo Irenaeus (c. 130 – c. 202 AD), đa số các nhà chú giải Thánh Kinh cũng cho rằng Thánh Luca viết hai sách này vào khoảng 80–90 AD, mặc dù có một số khác lại cho rằng vào khoảng năm 90-110.
Cả hai tác phẩm, Thánh Luca đã đề bạt cho Theophilus, có thể là tên một cộng đoàn Kitô Hữu, như ý nghĩa của chữ Theophilus là “Những Người Được Chúa Yêu Thương” (Beloved of God). Thánh Luca đã xác nhận rằng ngài đã không tận mắt chứng kiến những biến cố trong Phúc Âm, hoặc những biến cố trước khi Phaolô tới Troas được ghi trong Tông Đồ Công Vụ 16:8, nhưng đã ghi lại những biến cố này, những sự kiện ấy sau khi đã “cẩn thận tìm hiểu” (careful investigation), và trao lại cho chúng ta và muốn cho chúng ta tuân giữ “handed down to us”.
Nhìn chung lối hành văn của ngài, trong Phúc Âm thứ ba và trong sách Tông Đồ Công Vụ, thánh Luca đã tỏ ra là một nhà văn với lối dùng chữ rất văn chương và thức giả. Ngài cũng tỏ ra là một nhà tâm lý, vì trong các câu truyện ngài kể đều lồng vào tâm lý của từng nhân vật qua ngôn ngữ và thái độ diễn tả của những nhân vật này. Hobart năm 1882 đã cho rằng văn chương được Thánh Luca dùng trong Tông Đồ Công Vụ nói lên ngài là một người được đào tạo trong giới y sỹ. Và lần đầu tiên sách này dùng chữ “chúng tôi” (16:10). Từ “we” chúng tôi mà Thánh Luca dùng cho thấy ngài đã tham dự trong những biến cố mà ngài nói đến, và là người đồng hành cùng với Thánh Phaolô trên hành trình truyền giáo.
Điểm nổi bật của Phúc Âm Thánh Luca:
-Tin Mừng của tuổi thơ Giêsu.
(Luca 2: 1-20; 8; 51-52)
Hai trong bốn Thánh Ký đã nói về biến cố giáng trần của Chúa Giêsu là Thánh Mátthêu và Thánh Luca. Riêng Thánh Luca đã cẩn thận ghi lại biến cố này và cho biết, Chúa Giêsu đã sinh ra trong hoàn cảnh nào? Và ở đâu? Ngài cũng vẽ ra một đêm Giáng Sinh huy hoàng với các thiên thần bay lượn, ca hát, với các mục đồng hối hả đến Belem, và có cả đàn vật vây quanh máng cỏ nơi Chúa Hài Nhi nằm như thế nào? Các mục đồng đã được thiên thần bảo đảm rằng họ không phải sợ hãi gì, vì Đấng mà họ sẽ chiêm bái là Đức Kitô, cứu Chúa. Bài ca Đêm Giáng Sinh của ca đoàn thiên quốc có câu: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương” (2:14), khiến lòng con người cảm thấy bình an.
Tuổi thơ của Chúa Giêsu cũng đã để lại những thời khắc khiến cho cha mẹ Ngài vừa mừng vừa lo. Điển hình là biến cố lạc mất và gia đình đoàn tụ sau ba ngày Chúa Giêsu tự ý tách rời cha mẹ, ở lại Giêrusalem. Trong giây phút gặp lại con sau đó, Đức Maria đã vui mừng nói với con: “Hỡi con, sao con đối sử với chúng ta như vậy? Cha con và mẹ đã đau khổ tìm con” (2:48). Điểm đáng chú ý nhất là Chúa Giêsu sau đó đã theo cha mẹ về Nazareth, lớn lên trong khôn ngoan, và đẹp lòng Thiên Chúa và con người” (51-52).
-Tin Mừng của lòng nhân hậu:
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa cũng là một trong những điểm nổi bật của Phúc Âm Thánh Luca. Thánh ký đã ghi lại điểm này qua những câu truyện như: “Đứa con hoang đàng”, “Người Samaritano nhân hậu”, “Ông Giakêu”, “Người trộm thống hối”. Tất cả những dụ ngôn này đều diễn tả lòng yêu thương của Thiên Chúa dành cho những người thu thế, những người tội lỗi, những người bơ vơ, nghèo đói. Cả câu truyện Lazarus và người phú hộ cũng là một thí dụ làm nổi bật lòng nhân hậu Thiên Chúa khi nghĩ đến thái độ của người Samaritan nhân hậu đối với nạn nhân bị cướp đánh giữa đường. Theo Thánh Augustine, thì người Samaritan hiền hậu ấy là hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng đã từ ngai trời xuống cứu độ nhân loại.
-Tin Mừng Cầu Nguyện:
“Ta và Cha Ta là một” (Gioan 10:30). Chúa Giêsu đã thực hành một cách đầy đủ sự kết hợp mật thiết giữa Ngài và Chúa Cha. Ngài luôn luôn tìm kiếm Thánh Ý Chúa Cha trong việc cầu nguyện. Thánh Luca đã ghi lại cảnh Chúa Giêsu cầu nguyện khi chịu phép rửa (3:21). Trước khi chọn các Tông Đồ (6:12). Trước khi biến hình trên núi Tabor (9:28). Lúc hấp hối trong vườn Cây Dầu (22:39-44). Khi treo trên thập giá: “Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (23:34), và trước khi tắt thở: “Lạy Cha, con xin phó linh hồn trong tay Cha” (23:46).
-Tin Mừng vui mừng và hy vọng:
Đặc biệt trong chương 15, Thánh Luca đã viết lại những dụ ngôn đầy vui mừng và an ủi. Dụ ngôn khi tìm thấy con chiên lạc (4-7), người đàn bà tìm được đồng tiền đánh mất (8-10), người cha ôm người con hoang trở về (11-32), và các Tông Đồ hân hoan khi trở lại Giêrusalem để đón chờ Chúa Thánh Thần hiện xuống (24: 50-53).
Chỉ có trong Phúc Âm Thánh Luca mà câu truyện Truyền Tin (1: 26-38), việc Mẹ Maria đi thăm Elizabeth (1:39-45), bài ca Ngợi Khen (Magnificat) (1: 46-55), biến cố dâng Chúa vào đền thờ được kể lại. Trong ngày truyền tin, Tổng Thần Gabriel đã chào mừng Đức Maria: “Kính chào Maria đầy ơn phúc” và lời chúc tụng của bà Elizabeth: “Bà là người có phúc và quả phúc Giêsu trong lòng bà được chúc phúc”. Giữa những vui mừng và hy vọng này, Thánh Luca cũng kể đến niềm vui của gia đình Zacharia-Elizabeth khi bà Elizabeth mang thai trong lúc tuổi già, và bài ca của Zacharia trong ngày đặt tên cho Gioan (1:69-79).
-Tin Mừng cho nữ giới:
Phúc Âm Luca còn được gọi là Tin Mừng cho nữ giới, vì ngài là người đã đưa vai trò của phụ nữ liên quan đến công cuộc cứu chuộc của Chúa Cứu Thế. Thánh Luca đã nhấn mạnh đến những phụ nữ đi theo Chúa và phục vụ Chúa trên đường truyền giáo như Maria Magdalene, Joanna, Susanna, và “nhiều phụ nữ đã dùng tài sản của mình để giúp Chúa và các môn đệ” (8:1-3). Đặc biệt tình cảm mà Chúa Giêsu dành cho chị em Martha và Maria (10: 38-42).
Sau cùng, trong Tin Mừng của ngài, thánh Luca đã nhắc đến những điều kiện rõ ràng để được nước trời, đó là đức tin, lòng khiêm nhường, thống hối, chấp nhận những khó khăn, sống bác ái, và trung thành trong đau khổ.
Riêng trong sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Luca đã tường thuật lại những bước đầu của Giáo Hội sơ khai, hoa trái và hoạt động của Chúa Thánh Thần qua các hoạt động truyền giáo của các Tông Đồ, nhất là Tông Đồ Phaolô và Phêrô. Tinh thần bác ái và hiệp nhất của các tín hữu sơ khai. Họ đã cầu nguyện, bẻ bánh như thế nào?
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Đấng đã gọi Thánh Luca thánh sử và lương y. Xin cho những liều thuốc thiêng liêng của thánh nhân được ban qua Phúc Âm của ngài, mọi bệnh tật linh hồn chúng con được chữa trị, nhờ danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Thánh Luca cầu cho chúng con.
18 tháng 10, 2023.
___________
Tham khảo:
Wikipedia, the free encyclopedia
https://en.wikipedia.org/wiki/Authorship_of_Luke-Acts
https://stlukes-parish.org/biography-of-st-luke
https://www.britannica.com/biography/Saint-Luke
Historical reliability of the Acts of the Apostles
Câu truyện sau đây được một người thân kể lại có liên quan đến hai chữ “khẩu nghiệp”, với lời nhắn là ai đó, xin đừng tạo nghiệp cho mình bằng cách làm tổn thương người khác. Chị sinh ra trong một gia đình giầu có và đông anh chị em. Tuy cùng cha, nhưng gia đình có nhiều “mẹ”, nên mặc dù anh chị em thương yêu nhau, vẫn không tránh khỏi những khác biệt về tâm lý, suy nghĩ, và hành động.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?